Chỉ số sáng tạo CQ SQ - Chỉ số xã hội. Tương tự như EQ, người có SQ cao thường rất nhạy bén với tình hình biến động của xã hội, từ đó đưa ra các biện pháp ứng phó phù hợp với thực tiễn và đạt được thành công. MQ - Chỉ số đạo đức
Theo phân tích của các chuyên gia tâm lý, chỉ số IQ và EQ được thể hiện qua 6 kỹ năng chính ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của trẻ cả ở hiện tại lẫn tương lai, bao gồm: Tư duy phản biện, Khả năng tập trung, Khả năng giải quyết vấn đề (liên quan đến IQ
EQ, CQ, SQ, - CHỈ SỐ CỦA NGƯỜI THÀNH ĐẠT. Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
4EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn . Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm l
EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những
Thông tin chi tiết Chỉ số SQ - Trí tuệ tinh thần, thấu hiểu bản thân để thành công. 12/9/2019 9:03:58 AM. Khi đạt được đẳng cấp Master của chỉ số SQ, tâm trí của bạn sẽ tiến tới trạng thái hoàn hảo nhất mà con người từng biết đến.
EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
Qn0iD. EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt EQ - Trí thông minh cảm xúc Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc Emotional Intelligence, hoặc. EQ SQ CQ - những chỉ số của người thành đạt EQ - Trí thông minh cảm xúc Càng ngày người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ như người ta thường nói với IQ người ta tuyển lựa bạn nhưng với EQ người ta đề bạt bạn . Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990 nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc Emotional Intelligence hoặc Emotional Quotient - EQ . Thực tế cho thấy cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học. Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh người ta đã chứng minh được lý trí mà đại diện là trí thông minh không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc và chính phần neocortex phụ trách suy luận trên não là nhạc trưởng nó chỉ đạo phối hợp kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa. EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những thiên tài đơn độc mà trong thời đại hiện nay tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng . Sau đó nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional Intelligence. EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ hệ thần kinh chưa trưởng thành có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai nhưng không ít người lại thiếu cả hai. Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm đo bằng con số cụ thể EQ chưa có được một công thức
Một cách tiếp cận toàn diện để lãnh đạo yêu cầu kiến thức, tức là trí thông minhChúng có mối quan hệ với nhau ở chỗ chúng được xây dựng dựa trên nhau khi trình độ trí tuệ của mỗi người tăng lên theo thời gian thông qua trải nghiệm cuộc sống bình thường, thành tích học tập và kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực chúng tôi đã quan trọng của Trí tuệ thể chất PQ đối với hạnh phúc tổng thể của sức khỏe và thể chất cá thông minh thể chất liên quan đến trí thông minh cơ thể-vận động của Gardner. Hơn nữa, các nghiên cứu và phát hiện hiện tại chứng minh sự cần thiết của việc duy trì một mức độ thể dục mạnh mẽ để cải thiện tuổi thọ và các chức năng của cơ số thông minh – IQ Intelligence QuotientThông minh cảm xúc- EQ Emotional QuotientChỉ số vượt khó – AQ Adversity QuotientChỉ số say mê – PQ Passion QuotientThông minh xã hội – SQ Social IntelligenceChỉ số sáng tạo – CQ Creative IntelligenceKiểm tra trí thông minh IQ Test IQKiểm tra trí tuệ cảm xúc EQ Test EQTrí tuệ tâm linh SQKhả năng cư xử với trí tuệ và lòng từ bi, trong khi duy trì hòa bình bên trong và bên ngoài, bất kể tình huốngTrí tuệ và lòng trắc ẩn là trụ cột của SQHiểu biết sâu sắc hơn về thế giới quan, mục đích sống, thứ bậc giá trị và kiểm soát cái tôi cá nhân để coi cái tôi cao làm chủ sự phát triển tinh thần của một người, sống theo mục đích, giá trị và tầm nhìn của bạn, giữ vững niềm tin và tìm kiếm hướng dẫn từ một quyền lực cao thức phổ quát về thế giới quan của người khác, giới hạn và sức mạnh của nhận thức con người, nhận thức về các quy luật tâm linh và tính duy nhất siêu việtTrí tuệ cảm xúc EQEQ gắn liền với hiệu suất tốt hơn trong chín lĩnh vực lãnh đạo và quản lý khác nhau. Nghiên cứu của Goleman chỉ ra rõ ràng rằng EQ là yêu cầu không tuyệt đối – của lãnh hiểu các nguyên tắc và thực hành để cải thiện Nhận thức về Bản thân và Quản lý Bản thân sự tự tin; tự kiểm soát; khả năng thích ứng; sáng nên xã hội hơn đồng cảm; định hướng dịch vụ cho người khác và tổ lý mối quan hệ thực hành lãnh đạo truyền cảm hứng; thay đổi cách quản lý; kỹ năng giải quyết xung đột; kỹ thuật xây dựng tinh thần đồng số thông minh IQHọc tập suốt đời được nhiều người coi là sự gia tăng trình độ trí tuệ – IQ – của tất cả mọi người với mong muốn nâng cao trí tuệ, chuyên môn nghiệp vụ và vị trí trong cuộc sống. Chỉ số IQ đóng góp đáng kể vào “trí tuệ” cá nhân mà một người đạt được trong suốt quá trình trưởng số trí tuệGiáo dục thường xuyên là một quá trình không bao giờ kết thúc trong việc nâng cao trình độ dân trí của một ngườiTồn tại là thay đổi, thay đổi là trưởng thành, trưởng thành là tiếp tục sáng tạo không ngừngHọc tập suốt đời được nhiều người coi là sự gia tăng trình độ trí tuệ – IQ – của tất cả mọi người với mong muốn nâng cao trí tuệ, chuyên môn nghiệp vụ và vị trí trong cuộc sốngChỉ số IQ đóng góp đáng kể vào “trí tuệ” cá nhân mà một người đạt được trong suốt quá trình trưởng sinh các lớp học cao hơn, lấy văn bằng 2, các lớp nâng cao nghiệp vụ kỹ cứu các chủ đề trí tuệ như triết học, tôn giáo, biểu tượng, lãnh đạo, tâm lý quanh bạn với những người hoặc tổ chức nơi tồn tại học tập suốt tuệ thể chất PQKhả năng lắng nghe, xác định và phản hồi các thông điệp nội bộ về bản thân của một người. Đau đớn, đói, chán nản, mệt mỏi và thất vọng là những ví hiểu và hiểu về kết nối cơ thể tâm trí. Ví dụ dạ dày nói với tâm trí rằng đã đến lúc ngừng ăn; hiểu được sự khác biệt giữa tiếng nói bên trong của mong muốn và nhu cầuXác định trọng lượng hoàn hảo, mức độ thể dục và chế độ ăn uống hoàn hảo của cơ thể chúng thông minh văn hóa hoặc thương số văn hóa CQ là một thuật ngữ được sử dụng trong kinh doanh, giáo dục, chính phủ và nghiên cứu học thuậtNó có thể được hiểu là khả năng liên hệ và làm việc hiệu quả giữa các nền văn hóaKhái niệm liên quan đến năng lực đa văn hóaĐặt nền tảng ham học hỏi mạnh mẽ cho công ty, khuyến khích văn hóa đổi mớiChỉ số vượt nghịch cảnh AQAdversity quotient là khả năng xử lý tốt các nghịch cảnh; Khả năng thích ứng và phát triển trong môi trường thay đổiĐó là một trong những đặc điểm được tìm kiếm nhiều nhất của một người trong nhiều được biết đến với nhiều tên gọi khác gan góc, xương sống, cường tráng, bền bỉ, ngoan cường và tự túc. Không giống như và các nhà tuyển dụng liên kết với với sự ổn định, sức mạnh và quyền lực… …testiqfree
Ngày đăng 11/12/2013, 1515 4EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ. Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học. Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh, không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex phụ trách suy luận trên não là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa. EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những "thiên tài đơn độc" mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng. Sau đó, nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional Intelligence. EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai. Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. SQ - Thông minh xã hội Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ. Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể . Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội. CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện. Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo Creative Intelligence và tương ứng CQ. Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn giản "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được. Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên 'Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích này. PC - Say mê quyền lực Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê Passion Quotient, viết tắt PQ và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp Career Quotient CQ. Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là yêu thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình. Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực. Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức Moral Quotient, MQ. Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau. Theo Khoa học và Đời sống . 4EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người. trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ - Xem thêm -Xem thêm Tài liệu 4EQ, SQ, CQ - Những chỉ số của người thành đạt pptx, Tài liệu 4EQ, SQ, CQ - Những chỉ số của người thành đạt pptx,
Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ trí thông minh cảm xúc Chủ đề Chỉ số EQEQtâm lýkỹ năng tư duykỹ năng mềm Nội dung Text 4EQ, SQ, CQ - Những chỉ số của người thành đạt 4EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ. Thực tế cho thấy, cảm xúc Những người thành chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học. đạt không phải là Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người có IQ cao nhất mà có EQ cao người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh, không có ở dạng thuần túy mà được nuôi nhất. dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex phụ trách suy luận trên não là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa. EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những "thiên tài đơn độc" mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng. Sau đó, nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional Intelligence. EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai. Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội. Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. SQ - Thông minh xã hội Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ. Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể... Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội. CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện. Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo Creative Intelligence và tương ứng CQ. Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn giản "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được. Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên 'Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích này. PC - Say mê quyền lực Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê Passion Quotient, viết tắt PQ và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp Career Quotient CQ. Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là yêu thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình. Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực. Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức Moral Quotient, MQ. Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau. Theo Khoa học và Đời sống
Khoa học Thứ hai, 23/8/2004, 0754 GMT+7 Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ. Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học. Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh, không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex phụ trách suy luận trên não là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa. EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những "thiên tài đơn độc" mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng. Sau đó, nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai. Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội. Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. SQ - Thông minh xã hội Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ. Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể... Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội. CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện. Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo Creative Intelligence và tương ứng CQ. Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn giản "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được. Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên 'Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích này. PC - Say mê quyền lực Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê Passion Quotient, viết tắt PQ và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp Career Quotient CQ. Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là yêu thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình. Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực. Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức Moral Quotient, MQ. Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau. Theo Khoa học và Đời sống
eq sq cq những chỉ số của người thành đạt