B - MÔ TẢ NỘI DUNG CÁCH THỨC THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ: I - Đặc điểm khi dạy học tích hợp liên môn trong bài "Qua Đèo Ngang". Việc vận dụng dạy tích hợp liên môn dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lý luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn văn bản
Download Phân tích bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh. CÙNG CHUYÊN MỤC. XEM THÊM. "Sóng" được in trong tập "Hoa dọc chiến hào", xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai
Tỉ dụ bài luận Dàn ý phân tách nỗi nhớ quê hương của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang (Chuẩn) Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói "Thơ là nhụy của cuộc đời, nhà thơ hãy uống nhụy ấy và nỗ lực cũng có nhụy ở đời". Đúng là, mỗi thi sĩ đều chọn
Tiết 29 - Văn bản: QUA ĐÈO NGANG A. GiỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM: 1- Tác giả: - Tên thật là Nguyễn Thị Hinh. - Sống ở thế kỉ XIX. - Thơ bà thường viết về thiên nhiên vào lúc trời chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng, buồn buồn. 2- Tác phẩm : Bài thơ được sáng tác khi
Qua đèo Ngang(Bà huyện Thanh Quan) Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lác đác bên sông rợ [2] mấy nhà. Thương nhà, mỏi miệng cái da da. Một mảnh tình riêng, ta với ta. 1. Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn
Môn Văn Lớp: 7 Giúp em bài này với ạ: -Phân tích 1 đoạn thơ "Qua Đèo Ngang" từ 'nhớ nước đau lòng —>cái gia gia'.-Phân tích 1 đoạn thơ"Bạn Đến Chơi Nhà" từ'trẻ thơ đi vắng—>trầu không có'.-Em có cảm nghĩ gì về câu "ta với ta"bài'qua đèo ngang.
Phân tích 1) Cảnh Đèo Ngang -Trời chiều "bóng xế tà". -Cây cỏ chen chúc ,rậm rạp" cỏ cây chen đá lá chen hoa" -> hoang sơ . - con người : thưa thớt ,heo hút "lom khom dưới núi tiều vài chú " -=>Cảnh vật như gợi lên nỗi buồn man mác .
OPSj. Văn mẫu lớp 7 Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Hôm nay, Tài Liệu Học Thi sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 7 Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Qua Đèo Ngang là một bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp Đang Xem Văn mẫu lớp 7 Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang Tài Liệu Học Thi sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 7 Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, bao gồm dàn ý và 9 bài văn mẫu, mong sẽ giúp ích cho các bạn học sinh. Mời tham khảo nội dung chi tiết dưới đây. I. Mở bài Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang. II. Thân bài 1. Hai câu đề Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang – Thời gian “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. – Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng. Điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. => Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. 2. Hai câu thực Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang – Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện Nghệ thuật đảo ngữ Lom khom – tiều vài chú hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Lác đác – chợ mấy nhà hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. => Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh. 3. Hai câu luận Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang – Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. – Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. => Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan. 4. Hai câu kết Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ – Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. – Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” – đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. => Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn. III. Mở bài Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 1 Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà. Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom – tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác – chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang. Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng. Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta” Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta” “Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta” Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ – chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn – khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ. Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 2 “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông như núi, như người Việt Nam” Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hòa sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một trong số đó. “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Câu thơ mở đầu gợi mở về không gian, thời gian. Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm chiều tà đã bao trùm lên không gian đèo Ngang. Tiếp đến nhà thơ sử dụng điệp từ “chen” cùng cách gieo vần lưng “lá, đá” đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu “Vẳng nghe chim vịt kêu chiều Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau” Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ “Qua đèo Ngang”, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật. Không chỉ là thiên nhiên, mà con người cũng xuất hiện trong bức tranh nơi đèo Ngang “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Xem Thêm Bộ đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 8 năm 2017-2018 Có đáp ánSự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ “vài, mấy” như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống. Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến cho ta có cảm giác tha thiết, ray rứt. Từ “nhớ nước, thương nhà” là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia giá phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.” Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 3 Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan là “Qua Đèo Ngang”. Với bài thơ này, tác giả đã gửi gắm tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. “Qua đèo ngang” gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ “Qua đèo ngang” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú XuânHuế nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với tám câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh. “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa” Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc “bóng xế tà”. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có “cây cỏ chen lá, đá chen hoa” hiu quạnh. Điệp từ “chen” khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” cho thấy sự thưa thớt, vắng vẻ của con người. Trong bức tranh thiên nhiên này, con người chỉ là một điều nhỏ bé. Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh – hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày “ta với ta” nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 4 Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh “Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp. Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút. Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa. Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà. Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả. Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối. Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả. Qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 5 Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập dạy dỗ các cung nữ trong cung đã sáng tác bài Qua đèo Ngang. Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống. Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời “Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.” Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ từ đồng âm khác nghĩa để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ. Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?! Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng “Dừng chân đứng lại trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 6 Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này. “Trèo đèo hai mái chân vân Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình” Xem Thêm Gợi ý đáp án Mô đun 4 môn Lịch sử – Địa lí Tiểu họcNằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương “Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa” Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng. Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này. Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẻ bao nỗi niềm. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề. Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ. “Dừng chân nghỉ lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.” Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trào. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung? Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu. Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân. Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 7 Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy. Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, lá chen hoa” Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Điệp âm “con quốc quốc” và “cái gia gia” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bỗng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. “Dừng chân nghỉ lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Chỉ bốn chữ “dừng chân nghỉ lại” cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 8 Qua Đèo Ngang là một tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ gửi gắm tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ. Mở đầu, tác giả gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Hai từ “bước tới” gợi đến một sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hay tiếp cận con đèo. Đó cũng là thời khắc “bóng xế tà” khi ngày đã sắp tàn và màn đêm đang dần buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang vu xa lạ, những xúc cảm của lòng người đã trào dâng. Tiếng “tà” với âm bằng xuất hiện trong văn cảnh tạo nên giai điệu buồn thương man mác, trở thành “vần” của ý thơ “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Khung cảnh thiên nhiên hiện lên với sức sống mãnh liệt. Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá – lá”, lại vừa sử dụng vần chân “tà – hoa” đã làm cho nhạc điệu thơ du dương và réo rắt. Cảnh đèo hiện lên thật hoang vu và có chút cằn cỗi. Không chỉ thiên nhiên, con người cũng đã xuất hiện trong bức tranh đó “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Cách sử dụng từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người. Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ ngư, tiều, canh, mục kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo. “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn. “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết. “Qua Đèo Ngang” là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 9 Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” – kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo “lom khom – tiều vài chú”, “lác đác – chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn. “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.” Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta” Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” – “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả. Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.
Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang ❤️️ 16 Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Nghị Luận Đặc Sắc Phân Tích Tác Phẩm Thơ Bà Huyện Thanh Quan. Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Của Bà Huyện Thanh QuanSơ Đồ Tư Duy Phân Tích Bài Văn Qua Đèo NgangViết Đoạn Văn Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Ngắn Gọn NhấtViết Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Hay Nhất – Mẫu 1Phân Tích Qua Đèo Ngang Hay Nhất Đặc Sắc – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Và Nêu Cảm Nhận Của Em Về Cảnh Vật Ở Đèo Ngang – Mẫu 3Phân Tích Qua Đèo Ngang Ngắn Gọn – Mẫu 4Phân Tích Bài Qua Đèo Ngang Lớp 7 Ngắn Nhất – Mẫu 5Phân Tích Bài Qua Đèo Ngang Ngắn Nhất Chọn Lọc – Mẫu 6Phân Tích Qua Đèo Ngang Nâng Cao – Mẫu 7Phân Tích Qua Đèo Ngang Học Sinh Giỏi – Mẫu 8Phân Tích Tâm Trạng Bài Thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 9Phân Tích Vẻ Đẹp Của Bài Thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 10Phân Tích Nghệ Thuật Qua Đèo Ngang – Mẫu 11Phân Tích Luật Thơ Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 12Phân Tích Từ Ta Với Ta Trong Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 13Phân Tích 4 Câu Thơ Đầu Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 14Phân Tích 4 Câu Thơ Cuối Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 15Phân Tích 2 Câu Cuối Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 16 Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Của Bà Huyện Thanh Quan Tham khảo mẫu dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan dưới đây sẽ giúp các em học sinh định hướng cho mình bố cục và luận điểm chính của bài viết. I. Mở bài phân tích bài thơ Qua đèo Ngang Giới thiệu về tác giả Bà Huyện Thanh thiệu nội dung cần phân tích – bài thơ Qua đèo Ngang. II. Thân bài phân tích bài thơ Qua đèo Ngang câu đề Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang -Thời gian “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. -Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. câu thực Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang -Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện với nghệ thuật đảo ngữ Lom khom – tiều vài chú hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân đác – chợ mấy nhà hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. -Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh. câu luận Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa.Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan. câu kết Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông.Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” – đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn. III. Kết bài phân tích bài thơ Qua đèo Ngang Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo cảm nhận của bản thân. Giới thiệu đến bạn 🌟 Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🌟 15 Bài Văn Hay Nhất Mẫu sơ đồ tư duy phân tích bài văn Qua đèo Ngang dưới đây sẽ giúp các em học sinh hệ thống hoá kiến thức và ôn tập tác phẩm hiệu quả nhất. Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Bài Văn Qua Đèo Ngang Tiếp tục tham khảo 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Qua Đèo Ngang 🌹 8 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay Viết Đoạn Văn Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Ngắn Gọn Nhất Gợi ý viết đoạn văn phân tích bài thơ Qua đèo Ngang ngắn gọn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cho mình cách triển khai ý văn. Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” – kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo “lom khom – tiều vài chú”, “lác đác – chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn. “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.” Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ “Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta” Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” – “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả. Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan. Đón đọc tuyển tập 🌠 Cảm Nhận Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🌠 15 Bài Biểu Cảm Hay Viết Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Hay Nhất – Mẫu 1 Đón đọc gợi ý viết bài văn phân tích bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất được chọn lọc dưới đây dành cho các em học sinh. Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nữ sĩ tài danh xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tuy nhiên những sáng tác của bà còn tồn tại đến ngày nay không còn nhiều. Có thể nói, bài thơ Qua đèo Ngang là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của bà. Ra đời khi Bà Huyện Thanh Quan lần đầu tiên xa nhà, xa quê hương, vào kinh đô Huế nhận chức “cung trung giáo tập”, bài thơ mang những nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng, một bức tranh Đèo Ngang vừa thoáng đãng, vừa heo hút, hoang sơ nhưng vẫn thấp thoáng ở đó bóng hình, sự sống của con người. Mở đầu bài thơ cảnh tượng Đèo Ngang thoáng hiện lên nỗi buồn hiu quạnh. Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá đá chen hoa Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã gợi lên thời gian, không gian nghệ thuật cho bài thơ, để rồi, từ trong khoảng không gian, thời gian ấy cảnh tượng đèo Ngang cứ thế dần hiện ra. Thời gian trong bài thơ được gợi lên thông qua cụm từ “bóng xế tà”. Có thể thấy đó là một buổi chiều chạng vạng – khoảng thời gian thường gợi lên trong mỗi người nỗi buồn man mác với nỗi trống vắng, cô đơn. Không chỉ là thời gian chiều tà, bài thơ còn gợi lên một không gian cảnh vật nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông – sự rộng lớn của không gian càng làm tăng thêm nỗi buồn và sự trống vắng. Và để rồi, trong khoảng không gian rộng lớn ấy, từng cảnh vật cứ thế chen chúc nhau mọc lên. Sự chật chội, chen chúc ấy của cảnh vật được thể hiện rõ nét qua động từ “chen”. Động từ này không chỉ gợi lên sự chen chúc, hoang sơ, không có trật tự của cảnh vật mà qua đó nó còn thể sức sống của vạn vật trước sự khắc nghiệt của khí hậu và sự mênh mông của không gian. Thêm vào đó, bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang còn hiện lên thấp thoáng sự sống của con người. Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” để diễn tả dáng hình của chú tiều và những ngôi nhà cùng nghệ thuật đảo ngữ, chúng được đặt lên ở đầu câu đã nhấn mạnh sự thưa thớt, ít ỏi. Thêm vào đó, việc sử dụng các từ ngữ “vài”, “mấy” đã làm tăng thêm sự nhỏ bé của bóng hình con người và sự thưa thớt, hoang vắng của cảnh vật. Để rồi từ những hình ảnh và từ ngữ ấy, tác giả đã gợi nên một bức tranh cảnh vật thưa thớt, hoang vắng dẫu đã có ánh lên sự sống của con người. Như vậy, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên một bức tranh cảnh vật đèo Ngang lúc chiều tà rộng lớn, mênh mông, thấp thoáng hiện lên bóng hình của con người, của sự sống nhưng vẫn còn hoang vắng, đìu hiu, gợi lên cảm giác man mác buồn và sự vắng lặng, cô đơn. Không dừng lại ở đó, bài thơ Qua đèo Ngang còn thể hiện tâm trạng và nỗi lòng của nhà thơ. Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia Hai câu thơ đã cho thấy nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện và tài tình của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan – chữ quốc là nước là từ đồng âm với từ “cuốc” – chỉ một loài chim và “gia gia” là từ có âm gần giống với loài chim đa đa. Với nghệ thuật chơi chữ tài năng, hai câu thơ đã nói lên tâm trạng của bà vào thời điểm bước tới đèo Ngang. Âm thanh văng vẳng của hai loài chim ấy phải chăng cũng chính là nỗi lòng của bà ngay lúc này – nỗi “nhớ nước”, “thương nhà”. Đồng thời, nỗi lòng ấy càng được tỏ rõ và nhấn mạnh khi tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa hai từ “nhớ nước”, “thương nhà” lên đầu hai câu thơ. Thêm vào đó, bài thơ còn diễn tả một cách trực tiếp nỗi cô đơn của nữ thi sĩ qua hai câu thơ kết thúc bài thơ. Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta Giữa khoảng không gian rộng lớn của đất trời, dường như càng làm tô đậm thêm sự nhỏ bé, cô đơn của tác giả. Thêm vào đó, những sự vật tưởng như luôn song hành, đi cùng và quyện hòa vào nhau nên lại chia lìa, xa cách nhau – điều này thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các dấu phẩy, tách các sự vật “trời”, “non”, “nước’. Dường như, chính cái nhìn chia lìa, chính tâm trạng của tác giả đã có tác động sâu sắc tới cái nhìn đầy sự chia cách ở của cảnh vật. Và để rồi, câu thơ kết thúc bài thơ như một tiếng thở dài diễn tả trực tiếp nỗi niềm của nhà thơ. Không gian rộng lớn nhưng nơi đây chỉ có “mảnh tình riêng” – chỉ một mảnh tình riêng “ta với ta”. Nếu như “ta” thường dùng để chỉ cái chung cho cả cộng đồng, tập thể thì giờ đây nó chỉ còn là cái cá nhân, cái riêng của tác giả. Để rồi, hai câu thơ cuối đã cho chúng ta thấy nỗi cô đơn, bơ vơ, lạc lõng giữa cái mênh mông, bao la, rộng lớn của thiên nhiên. Như vậy, bài thơ đã cho chúng ta thấy nỗi niềm của tác giả khi bước tới đèo Ngang – nỗi nhớ nước, nhớ nhà và nỗi cô đơn, lạc lõng. Không chỉ thành công về mặt nội dung, bài thơ Qua đèo Ngang còn hấp dẫn bạn đọc bởi những nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã đạt đến sự chuẩn mực trong việc sử dụng thể thơ Đường luật. Với thể thơ thất ngôn bát cú, mặc dù đã được Việt hóa, song bài thơ không những tuân thủ một cách nghiêm ngặt mà còn đạt đến độ chuẩn mực của thể thơ này về niêm, luật, vần với ngôn ngữ trau chuốt, giàu giá trị. Thêm vào đó, thành công của bài thơ còn ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài năng và đem đến hiệu quả nghệ thuật to lớn. Ẩn sau bức tranh cảnh vật nơi đèo Ngang vào buổi xế chiều đã thể hiện một cách rõ nét nỗi niềm tâm trạng – nỗi buồn man mác của nhà thơ khi phải rời xa quê hương. Và cuối cùng, nghệ thuật đảo ngữ, chơi chữ cùng việc sử dụng các từ láy góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm. Tóm lại, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với những nét đặc sắc về nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh cảnh vật chiều tà nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông, đâu đó hiện lên sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang dại và để rồi từ đó thể hiện rõ nét nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích Qua Đèo Ngang Hay Nhất Đặc Sắc – Mẫu 2 Tham khảo bài văn phân tích Qua đèo Ngang hay nhất đặc sắc dưới đây sẽ giúp các em học sinh luyện tập nâng cao kỹ năng viết. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này. “Trèo đèo hai mái chân vânLòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình” Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương “Bước tới đèo Ngang, bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa” Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng. Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này. Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẻ bao nỗi niềm. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề. Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ. “Dừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta.” Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trào. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung? Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu. Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân. Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy. Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh ☔ 12 Mẫu Đặc Sắc Nhất Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang Và Nêu Cảm Nhận Của Em Về Cảnh Vật Ở Đèo Ngang – Mẫu 3 Chia sẻ dưới đây văn mẫu phân tích bài thơ Qua đèo Ngang và nêu cảm nhận của em về cảnh vật ở đèo Ngang để các em học sinh cùng tham khảo. Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét. Mở đầu bài thơ là hai câu đề “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa” Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống. Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật. Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom” khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình. “Dừng chân ngắm lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang. Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc. Xem nhiều hơn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh 🌹 7 Mẫu Đầy Đủ Nhất Phân Tích Qua Đèo Ngang Ngắn Gọn – Mẫu 4 Bài văn mẫu phân tích Qua đèo Ngang ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích. Đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan, nỗi buồn về một buổi chiều tà được vẽ lên bởi những cảm xúc nghệ thuật hết sức tinh tế và trau chuốt, vẫn là những viên ngọc lung linh tạo nên những mĩ cảm trong tâm hồn nhiều thế hệ độc giả “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa” Khi vừa đặt chân đến, tác giả đã đặt mình vào một khoảng không với thời gian rõ ràng, chi tiết qua cụm từ “bóng xế tà”, khi ánh mặt trời còn những tia yếu ớt đang gắng gượng. Dường như buổi chiều nhá nhem ấy càng khiến tâm sự thêm nặng lòng, càng khiến nỗi buồn như trĩu nặng, giống ca dao có câu “Chiều chiều ra đứng ngõ sauTrông về quê mẹ ruột đau chín chiều” Khi bầy chim về tổ, đàn trâu về đàn, con người khao khát hơn cả hơi ấm của tình thương và sẻ chia thì tác giả lại đặt bước chân cô độc của người lữ khách ở một địa danh heo hút, vắng lặng. Câu thơ đã mở ra không gian tự nhiên heo hút vừa bao la, vừa hoang dại và thiếu vắng bàn tay con người. Hành trình tới đèo ngang còn được gợi mở cụ thể hiện khi có hình bóng con người “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Tất cả đều nhỏ nhoi, mờ nhạt, chẳng hề nô nức, náo nhiệt mà còn cũ kĩ trong tầm mắt. Dưới chân núi, hình ảnh con người lao động nhỏ bé giữa thiên nhiên hoang sơ, bên dòng sông nhỏ gần như khô cạn, vài nhà chợ rêu phong nằm lác đác. Như vậy, bốn câu thơ đầu, bằng những nét chấm phá, tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đèo ngang khơi gợi bao nỗi buồn, bao tâm sự miên man. Con người xuất hiện nhưng không đủ sức khơi dậy hơi ấm cho bức tranh thiên nhiên để từ đó dẫn đến hai câu luận “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Âm thanh vang lên từ hai loài chim là chim cuốc và chim đa đa – hai loài chim nhỏ bé thường chỉ xuất hiện những nơi đồi núi, heo hút. Cách tác giả chơi chữ để trên là tiếng nước, dưới là tiếng nhà để tạo kết cấu sóng đôi hai câu thơ đối nhau rất căn chỉnh. Tiếng kêu nhỏ nhoi vừa da diết, vừa khắc khoải vang trong không gian lặng mình càng kéo nỗi buồn thêm lê thê. Một bức tranh có không gian, thời gian, có hình ảnh, âm thanh với cái đẹp thấm với nỗi sầu, với âm thanh hòa với sự trầm lặng, với hoang vu trải dài đến mãi mãi. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaDừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Tác giả nhớ về triều đình buổi xa xưa dưới thời vua Lê. Khi nhà Lê suy tàn thì trái tim của nhân vẫn còn đó, luôn đau đáu về một triều đại đã qua. Nỗi nhớ ấy không đau đớn, dằn vặt hay giàn giụa trong nước mắt mà thấm đẫm trong suy tư, trong tất cả ai hoài về một triều đại cũ. Đến đây, khung cảnh mở rộng đến vô vàn đó là trời, non, nước. Nếu như ở trên gợi ra không gian ba tầng được ngăn cách thành những khối riêng lẻ như khối tâm sự đang đè nặng trên đôi vai nhà thơ. Đặc biệt khép lại bài thơ là cụm từ “ta với ta”, hai tiếng ta chỉ một người, lại là chính tác giả bởi vậy mà sự cô đơn, lẻ bóng càng nhân lên gấp bội. Như vậy, ta thấy trải dài trong bài thơ là nỗi niềm hoài cổ, sự trông ngóng về quá khứ một mối tâm tình không thể gỡ bỏ và chính nó đã hòa mình để thấm nhuần trong từng câu thơ làm toát lên cả một tâm hồn đầy trang trọng nhưng dạt dào tình cảm đã dệt nên phong cách, phong cách Bà Huyện Thanh Quan. Tham khảo trọn bộ 🌳 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh 🌳 15 Bài Hay Phân Tích Bài Qua Đèo Ngang Lớp 7 Ngắn Nhất – Mẫu 5 Văn mẫu phân tích bài Qua đèo Ngang lớp 7 ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan là “Qua Đèo Ngang”. Với bài thơ này, tác giả đã gửi gắm tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. “Qua đèo ngang” gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ “Qua đèo ngang” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với tám câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh. “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa” Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc “bóng xế tà”. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có “cây cỏ chen lá, đá chen hoa” hiu quạnh. Điệp từ “chen” khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” cho thấy sự thưa thớt, vắng vẻ của con người. Trong bức tranh thiên nhiên này, con người chỉ là một điều nhỏ bé. Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh – hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày “ta với ta” nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người. Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Bài Thơ Bạn Đến Chơi Nhà 🌳 15 Bài Hay Nhất Phân Tích Bài Qua Đèo Ngang Ngắn Nhất Chọn Lọc – Mẫu 6 Bài văn mẫu phân tích bài Qua đèo Ngang ngắn nhất chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những luận điểm rút gọn trọng tâm nhất. Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền thơ ca trung đại Việt Nam. Và bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm nổi tiếng của bà. Bài thơ đã diễn tả được tình cảnh cô đơn của tác giả cũng như nỗi nhớ quê hương của nhà thơ khi đứng trước không gian nơi đèo Ngang rộng lớn. Bài thơ được mở đầu với hình ảnh thiên nhiên nơi đèo Ngang – điểm nhìn từ trên cao nhìn xuống phù hợp để khắc họa thiên nhiên một cách bao quát. Vào thời điểm “bóng chiều đã xế tà” cũng là lúc nhà thơ bước chân đến đèo Ngang. Thiên nhiên ở đây có đá núi, cây rừng lại thấp thoáng có sự sống của con người nhưng vẫn thật hoang vu, vắng vẻ “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoaLom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Cảnh vật như đang nhuốm màu tâm trạng của nhà thơ. Nguyễn Du cũng từng khẳng định “Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Thiên nhiên dù tràn đầy sức sống. Có cả “cỏ” với “cây” điểm thêm “lá” và “hoa” cùng “chen” nhau mà vươn lên, tràn đầy sức sống. Nhưng cảnh vật thì vẫn cứ bao la khiến cho con người chỉ càng cảm thấy thêm đơn độc. Ngay cả khi con người xuất hiện thì cũng chỉ rất nhỏ bé giữa thiên nhiên. Con người trở thành “một chấm buồm nhỏ xíu” trong vũ trụ rộng lớn khôn cùng. Để rồi nhà thơ đã phải bộc lộ nỗi nhớ nhung dành cho quê hương “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaDừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta.” Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang. Cụm từ “con cuốc cuốc”, “cái gia gia” được sử dụng không chỉ là hình ảnh tả thực về loài chim cuốc, chim đa đa. Cách sử dụng biện pháp chơi chữ độc đáo nhằm diễn tả sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kỳ vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa cũng như nỗi nhớ quê hương tha thiết của chính nhà thơ. Hai câu thơ cuối cùng kết lại toàn bộ bài thơ với mạch cảm xúc được đẩy lên đến tột cùng. Nhà thơ một mình đứng ở nơi đèo Ngang, xung quanh chỉ có “trời, non, nước” – chỉ có thiên nhiên hoang vu, lạnh lẽo. Đó là sự cô đơn đến của người lữ khách trên hành trình đơn độc. Tâm trạng của nhà thơ cũng chẳng thể chia sẻ cùng với ai. “Một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” – đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Như vậy, khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang”, người đọc dường như cảm nhận được nỗi cô đơn của thi sĩ. Cũng càng thêm đồng cảm sâu sắc với nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Ngoài ra, tại còn có 🌺 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Bạn Đến Chơi Nhà 🌺 15 Mẫu Đặc Sắc Phân Tích Qua Đèo Ngang Nâng Cao – Mẫu 7 Tham khảo bài văn phân tích Qua đèo Ngang nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu. Cùng với Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan là ba gương mặt nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thế kỉ XVIII, nếu như thơ của Hồ Xuân Hương có cái sắc sảo, cá tính thì thơ của Đoàn Thị Điểm lại nhẹ nhàng nhưng vô cùng da diết khi viết về quá khứ huy hoàng đã qua, khi nói về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Bài thơ Qua đèo ngang là tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bà Huyện Thanh Quan hay viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son của một thời đã qua. “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa” Khi nhà thơ bước chân đến đèo ngang cũng là thời điểm chiều buông. Hình ảnh bóng xế tà không chỉ gợi ra không gian đất trời khi mặt trời bắt đầu lặn, màn đêm chuẩn bị buông, vừa gợi ra được nhịp vận động lờ lững, chậm chạp của những đám mây trên bầu trời. Không gian được gợi ra có chút hoang vắng, lại ẩn nhẫn sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, tác giả đã điệp từ chen vừa gợi ra cái đông đúc, rậm rạp của cỏ cây nơi mình đặt chân đến, đồng thời lại gợi ra được vẻ hoang sơ, tự nhiên của chốn núi rừng. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Từ láy “lom khom’ gợi ra dáng vẻ của người tiều phu trở về nhà trong khung cảnh chiều buông, “lác đác” lại gợi ra sự thưa thớt, trống vắng của không gian sống, không gian sinh hoạt. Trong hai câu thơ này, bóng dáng con người thấp thoáng dưới núi có phần nhỏ bé, không gian sống chưa kịp gợi lên sự ấm áp thì bị sự thưa thớt về khoảng cách đẩy lùi. Do đó có nói về con người, về sự sống thì cũng không làm cho bức tranh thơ bớt đi vẻ u buồn, tịch mịch. Cuộc sống đã thưa thớt lại tiêu điều đến thê lương với sự lác đác của lều chợ. Tầm nhìn được mở rộng nhưng lại gợi sâu thêm nỗi cô đơn, trống vắng của con người tha phương nơi đất khách “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Thời điểm chiều tà với không gian vắng vẻ, u buồn thường gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, đặc biệt là đối với những người xa xứ. Bởi đây chính là thời điểm những người thân trong gia đình đều trở về cùng sum họp dưới mái ấm gia đình. Bởi vậy mà trong không gian chiều tà, tại đèo ngang vắng lặng, hoang sơ, nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan hướng nỗi nhớ của mình đến gia đình, đến quê hương. Đây là tình cảm đầy tha thiết, chân thành của một người con xa quê, bà nhớ nhà, nhớ quê hương. Một nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai. Cảnh đèo ngang hiện lên với trời, non, nước đã gợi ra không gian mênh mông, bao la bát ngát mà xa lạ “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Trước không gian mênh mông của đất trời, của thiên nhiên,con người thường cảm nhận được sự rộng lớn, rợn ngợp mà thấu hiểu sâu sắc nỗi cô đơn, sự nhỏ bé của mình. Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, xa quê đi thực hiện nhiệm vụ không tránh khỏi những nỗi cô đơn nơi đất khách quê người. “Dừng chân” gợi ra sự nghỉ ngơi của đôi chân, nhưng lại mở ra sự vận động đầy da diết trong tâm hồn của người thi sĩ, đó chính là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Trong không gian mênh mông, rợn ngợp lại chỉ có một mình nên Bà Huyện Thanh Quan cũng không thể dãi bày tâm sự với ai mà chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Như vậy, bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan nổi bật lên với cảm xúc u buồn cùng nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy không chỉ thể hiện tấm lòng yêu thương, tình yêu chân thành đối với quê hương đất nước mà còn thể hiện được tình cảnh lẻ loi, đơn độc của nhân vật này trong không gian hoang vắng, rợn ngợp của đất trời. Khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Bạn Đến Chơi Nhà 🔥 9 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay Phân Tích Qua Đèo Ngang Học Sinh Giỏi – Mẫu 8 Đón đọc bài văn phân tích Qua đèo Ngang học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc khi viết nghị luận văn học về bài thơ. Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập dạy dỗ các cung nữ trong cung đã sáng tác bài Qua đèo Ngang. Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa” Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống. Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời “Lom khom dưới núi tiều vài chú,Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.” Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ từ đồng âm khác nghĩa để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ. Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?! Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng “Dừng chân đứng lại trời, non, nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Bài Thơ Bánh Trôi Nước 🌠 14 Mẫu Hay Nhất Phân Tích Tâm Trạng Bài Thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 9 Tham khảo bài văn mẫu phân tích tâm trạng bài thơ Qua đèo Ngang dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm những gợi ý hay khi làm bài. Bài thơ Qua Đèo Ngang gây nức lòng người đọc qua bao thế kỉ. Nó ấn tượng không phải bằng lời văn nhẹ nhàng sâu lắng giàu cảm xúc mà còn bởi chính lối nói mà các thi nhân xưa thường dùng tả cảnh ngụ tình. Đèo Ngang là chặng dừng chân đầu tiên trên đường vào Nam nhận nhiệm vụ. Xa quê hương, gia đình, người thân lòng nữ sĩ không khỏi bâng khuâng. Tín hiệu nghệ thuật đầu tiên người đọc nhận thấy là bóng xế tà. Tới đây mặt trời sắp lặn, hoàng hôn buông xuống, vũ trụ đang chìm dần vào cõi hư vô vắng lặng. Có chăng chỉ còn lại những tia sáng yếu ớt cuối chiều. Từ tà diễn tả một khái niệm sắp tàn lụi, biến mất. Không gian và thời gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt của người lữ thứ tha hương Vẳng nghe chim vịt kêu chiềuBâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau Buổi chiều mà lại là chiều tà gợi cho người ta thêm nhớ hơn. Nữ sĩ cũng vậy, khoảng thời gian ấy thích hợp nhất cho sự bộc lộ tâm trạng nhớ nhung khắc khoải. Lữ thứ chân bước vội cũng như cánh chim chiều mau cánh tìm chỗ trú ngụ, lũ trẻ chăn trâu gọi bạn hồi thôn. Không chỉ có trong bài thơ này, trong bài Chiều hôm nhớ nhà ta cũng bắt gặp tâm sự đó. Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn Ráng chiều gợi tâm trạng nhớ thương. Hoành sơn vốn nổi tiếng hùng vĩ hoang sơ. Trong khung cảnh ấy trước mắt thi nhân cỏ cây hoa lá chen chúc nhau tìm chút ánh sáng mặt trời. Một mình trên đỉnh núi non hiểm trở lại càng cảm thấy trống vắng. Mặc dù cảnh vật hữu tình cỏ cây, hoa lá, sông nước, biển khơi … Có lẽ lòng nữ sĩ chợt nhớ, hay nói cho đúng hơn hình ảnh người thân, gia đình, quê hương chợt hiện về. Đây cũng là lúc bữa cơm chiều đang đón đợi, cả nhà sắp tụ họp bên nhau… Vậy mà giờ đây một mình cất bước nơi đất khách quê người. Đang nao lòng buồn bã, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh Lom khom dưới núi, tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà Cảnh vật sự sống thật vắng vẻ mấy bác tiều phu lom khom đốn củi, vài ngôi nhà chợ liêu xiêu. Lối đảo ngữ được vận dụng rất thần tình, hình ảnh này gợi một sự so sánh liên tưởng tới cuộc sống tẻ nhạt, tiêu xơ. Nó khác hẳn chốn kinh kỳ náo nhiệt đua chen. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng chốn Đèo Ngang khiến cho lòng Bà đầy thất vọng. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo nên hình ảnh tiêu điều xơ xác của cuộc sống chốn đèo Ngang. Trong sự vắng lặng ấy xa xa nghe có tiếng kêu đều khoan nhặt man mác nhớ thương của quốc quốc, gia gia. Tương truyền sau khi vua Thục là Lưu Bị bại trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và mất tại đó. Sau khi mất Thục Đế đã hoá thành con chim quốc thể hiện niềm đau xót mất nước. Khung cảnh da diết tiếng chim kêu chiều buồn bã gợi ta nhớ những câu thơ Đây bốn bề núi núiHiu hắt vắng tăm ngườiĐèo cao và lưng hẹpDăm túp lều chơi vơi Tiếng chim quốc, gia gia do chính bà cảm nhận hay là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ. Đến đây nỗi lòng thi nhân đồng điệu với ông vua Thục muốn níu kéo những kỉ niệm xưa, hoài niệm về một thời dĩ vãng vàng son. Tiếng chim gợi nỗi niềm nhớ nước thương nhà đến nao lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về đất nước – phải chăng chính sự hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng sống. Thái độ của nữ sĩ là phủ nhận thực tại, tìm về quá khứ. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” trong hoàn cảnh này điều đó hoàn toàn hợp lý. Khép lại bài thơ là cả một tâm trạng dồn nénDừng chân đứng lại, trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta Nhà thơ có tâm sự u hoài, đứng trước không gian vời vợi bao la trời, non, nước. Khung cảnh càng rộng lớn thì con người càng bé nhỏ cô đơn. Và như vậy chỉ có ta với ta, mình với mình mà thôi. Ta là cá nhân nữ sĩ – con người của vật chất đối diện với ta – con người của tâm hồn. Một mình dối diện với không gian cảnh vật, với cuộc sống và để rồi với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm biết chia sẻ cùng ai? Một mảnh tình riêng trong một khối tình rộng lớn có chăng mình lại nói chuyện với mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây là tâm sự của chính tác giả và cũng là tâm sự của những con người xót xa trước thế sự đổi thay, của những thế hệ từng sống với quá khứ, xót xa với thực tại. Có rất nhiều những nhà thơ mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ thành công nhất là Bà Huyện Thanh Quan. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói ở đây là bà đã lựa chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để từ đó diễn tả tâm sự của chính mình. Trong bài thơ đã có đầy đủ cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhà thơ gửi gắm vào đó. Lời thơ nghe xúc động bồi hồi làm cho người đọc cũng băn khoăn day dứt. chia sẻ 🌼 Sơ Đồ Tư Duy Bánh Trôi Nước 🌼 7 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay Phân Tích Vẻ Đẹp Của Bài Thơ Qua Đèo Ngang – Mẫu 10 Bài văn phân tích vẻ đẹp của bài thơ Qua đèo Ngang dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ dựng lên một bức tranh thiên nhiên đầy sống động về địa danh Đèo Ngang của nước ta mà qua đó còn bộc lộ bức tranh tâm cảnh đầy khắc khoải, da diết của người lữ khách xa quê. Khung cảnh Đèo Ngang hiện lên hùng vĩ, rộng lớn nhưng hoang sơ, tịch mịch. Đồng thời trước cảnh tượng ấy, người thi sĩ là kẻ lữ khách xa quê đã bộc lộ niềm nhớ thương đất nước, quê nhà và những nỗi buồn sâu kín. Trong chuyến đi vào Phú Xuân – Huế để nhận chức quan, Bà Huyện Thanh Quan đã dừng chân nghỉ tại Đèo Ngang, đây cũng là lần đầu tiên tác giả đặt chân tới Đèo Ngang, tức cảnh sinh tình bà đã sáng tác nên bài thơ. “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.” Thời điểm nhà thơ dừng chân tại Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, khi cuối ngày cảnh vật đang chuẩn bị chìm vào bóng đêm, thời điểm này gợi lên trong lòng người những nỗi buồn man mác, và đặc biệt trong hoàn cảnh xa quê, xa nhà một mình nơi đất khách quê người như tác giả tâm hồn lại càng nhạy cảm hơn với ngoại cảnh. Khung cảnh nơi Đèo Ngang là rừng núi chỉ toàn cỏ cây hoa lá, cặp tiểu đối “cỏ cây chen đá” , “lá chen hoa” đã gợi tả khung cảnh hoang sơ, hiu quạnh, hoang vắng. Bên cạnh đó câu thơ cũng gợi nên sức sống mãnh liệt, um tùm, rậm rạp của cây cỏ. Trong bức tranh thiên nhiên ấy thấp thoáng bóng dáng cuộc sống con người “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Dưới núi vài chú tiều đang lom khom kiếm củi, bên sông chỉ lác đác mấy chợ, những câu thơ gợi ra bóng dáng của con người cùng những hoạt động sống thường nhật nhưng dường như sự xuất hiện chớp nhoáng, nhạt nhoà đó chỉ càng tô đậm thêm sự hoang vắng, tịch mịch nơi Đèo Ngang. Trong hoàn cảnh xa nhà, xa quê lại bắt gặp khung cảnh thiên nhiên và con người nơi Đèo Ngang, nữ thi sĩ đã bộc lộ tâm trạng và trải lòng mình với những nỗi nhớ thương, nỗi niềm tâm sự thầm kín “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nỗi nhớ nước thương nhà được nhà thơ gắn với những tiếng chim “con cuốc cuốc”, “cái gia gia”. Tiếng cuốc kêu nghe sao khắc khoải, vang vọng giữa rừng núi hoang vu, tiếng chim gia gia lại thêm phần da diết, réo rắt vào trong lòng người những nỗi nhớ thương. Nghệ thuật chơi chữ kết hợp với chuyển đổi cảm giác đã góp phần bộc lộ rõ tình yêu quê hương đất nước và nỗi nhớ thương quê nhà của Bà Huyện Thanh Quan. “Dừng chân đứng lại Trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu kết bài thơ đã gói trọn lại bức tranh tứ bình nơi Đèo Ngang, đồng thời tác giả đã gửi gắm vào đó nỗi niềm tâm sự thầm kín. Dừng chân tại nơi đất trời non nước hữu tình ấy, không gian bao la choáng ngợp lấy tâm hồn người thi sĩ, để rồi tác giả càng thấm thía hơn sự cô đơn, lạc lõng giữa chốn đất khách quê người. Chỉ có “ta với ta” những nỗi niềm tâm sự không thể giãi bày, chia sẻ với ai, “mảnh tình riêng” ấy đành cất lại nơi sâu thẳm tâm hồn, để rồi thay vào đó là tiếng thở dài đầy tiếc nuối, thở than. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khác nhau, đầu tiên là niềm tự hào, say mê trong cảnh sắc thiên nhiên đất trời Đèo Ngang, tiếp đến là khơi dậy nỗi nhớ quê hương, tình yêu đất nước và cuối cùng là sự cảm thông chia sẻ với nỗi lòng của nhà thơ. Gợi ý cho bạn 🌳 Mở Bài Bánh Trôi Nước Của Hồ Xuân Hương 🌳 20 Mẫu Hay Phân Tích Nghệ Thuật Qua Đèo Ngang – Mẫu 11 Để viết phân tích nghệ thuật Qua đèo Ngang, các em học sinh cần nắm vững những hình ảnh thơ đặc sắc. Tham khảo bài văn mẫu phân tích nghệ thuật bài thơ Qua đèo Ngang dưới đây Đèo Ngang là địa danh thuộc ngọn Hoành Sơn, một nhánh nhỏ của dãy núi Trường Sơn, cắt ngang, phân định ranh giới của hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, đây cũng là nơi khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều văn nhân thi sĩ. Trong đó phải kể đến Cao Bá Quát với Đăng Hoành Sơn, Nguyễn Khuyến với Quá Hoành Sơn, và nổi tiếng hơn cả phải kể đến Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, một trong hai nữ thi sĩ tài năng nhất của văn học học trung đại Việt Nam cùng với Hồ Xuân Hương. Khác với giọng thơ cá tính, sắc nhọn, thâm sâu của bà chúa thơ Nôm thì Bà Huyện Thanh Quan lại gây ấn tượng với người đọc bằng một phong cách thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, chất chứa nhiều những cảm xúc suy tư. Đặc biệt là với thủ pháp tả cảnh ngụ tình trong bài Qua Đèo Ngang thì phong cách thơ của bà lại càng được bộc lộ rõ hơn cả. Nếu đọc Qua Đèo Ngang một lần, ta sẽ nhận thấy rằng cả bài thơ hầu như chỉ tả cảnh, nếu như không nắm được hoàn cảnh sáng tác và tâm trạng của tác giả người xem có lẽ dễ dàng nhầm tưởng đây là một bài thơ với bức tranh phong cảnh thiên nhiên nhuốm màu trầm. Thế nhưng nếu đọc và phân tích từng ý người ta mới thấy thấm cái tình ưu tư của thi nhân trong từng câu chữ, trong từng cảnh vật, dừng như một câu tả vật cũng chính là một câu tả tình, vô cùng sâu sắc. “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa” Mở đầu bài thơ hai câu đề gợi ra một khung cảnh lưng đèo rộng lớn, khoáng đạt và bao la thế nhưng lại có chút buồn bã vây quanh. Cái buồn ấy xuất phát từ khoảng thời gian mà tác giả đã gợi ra trong bài bằng cụm từ “bóng xế tà”, có thể thấy bóng xế tà không phải là một mốc thời gian nào đó cụ thể, mà nó là sự miêu tả có chút mơ hồ về cảnh hoàng hôn sắp tắt, khi mặt trời đã khuất dạng. Cái còn lại chính là những tia sáng cuối cùng trong ngày, xen lẫn với màu đen của đêm tối tạo thành một màu xam xám bao phủ núi rừng, phủ lên cả người lữ khách đang dừng chân bên đèo tạo nên cảm giác nhạt nhòa, lặng lẽ và buồn man mác. Về âm điệu cụm từ “bóng xế tà” khi đó có cảm giác buông xuống nhẹ nhàng, và hơi day dứt, dường như là sự nuối tiếc về một cái gì đó sắp kết thúc. Và trong thực tế cuộc sống cũng như trong thi ca thì khoảnh khắc hoàng hôn buông, chiều tàn, ngày tàn thì luôn gợi ra con người những nỗi buồn không tên, đặc biệt đối với những con người hữu tình như tác giả thì nỗi buồn ấy lại càng trở nên thấm thía, sâu sắc thậm chí lan tỏa sang cả khoảng không gian mênh mông, rộng lớn xung quanh mình. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa” gây ấn tượng với thủ pháp điệp từ “chen” và biện pháp nhân hóa thế nhưng nó lại không đem đến những hiệu quả như làm cho khung cảnh thiên nhiên thêm sinh động hấp dẫn mà trái lại nó lại mang đến cảm giác rậm rạp, um tùm, cây cối chen chúc nhau giành giật sự sống. Khiến con người đứng giữa khung cảnh ấy có chút ghê sợ, cô đơn và lạnh lẽo, điều này kết hợp với cái cảnh nhá nhem tối lại đem đến trong lòng tác giả thêm nhiều suy tư. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thực khung cảnh thiên nhiên hoang vắng đã bắt đầu có sự sống của con người, thế nhưng việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa hai từ láy “lom khom” và “lác đác” lên đầu câu đã khiến cho ý của câu thơ có phần khác lạ. Thứ nhất xét từ “lom khom”, đó là dáng đứng cúi thấp mình, gánh củi của các tiều phu, sự xuất hiện của con người vốn đã ít ỏi chỉ có “tiều vài chú” mà dường như lại còn bị thiên nhiên lấn át. Ở đây con người đã hoàn toàn trở nên nhỏ bé và phụ thuộc vào thiên nhiên, sự xuất hiện của những con người thưa thớt lại càng tô đậm thêm cái quang cảnh thiên nhiên quá đỗi hùng vĩ, quá đỗi lạnh lẽo, hoang vắng buổi chiều tàn. Khi tác giả phóng tầm mắt ra xa thì thấy xuất hiện những ngôi nhà, vốn dĩ luôn là cái mà người lữ khách thường hướng đến mỗi khi đi xa, để tìm cảm giác ấm áp, cảm giác thân thuộc, để xóa nhòa đi nỗi cô đơn vắng vẻ. Thế nhưng trong câu thơ này cái sự ấm áp đã hoàn toàn bị hai từ “lác đác” lấy đi, mà thay vào đó cả câu thơ lại gợi sự chán nản, heo hút, mệt mỏi, thiếu sức sống trong khung cảnh dẫu rằng đã có sự xuất hiện của con người. Nhìn vào cách miêu tả, có thể nhìn ra tâm trạng của tác giả đó là nỗi cô đơn, trống vắng, sự lạc lõng giữa không gian rộng lớn, là sự chơi vơi bất định giữa thời cuộc. Nếu xét kỹ hơn người ta có thể liên hệ với tình cảnh của tác giả để hình dung ra nỗi buồn đang chất chứa trong lòng nữ sĩ, ấy là nỗi lòng nhớ nhà tha thiết của một người con xa xứ, rời xa chốn phồn hoa đô hội, nay nhìn cảnh thưa thớt, lạnh lẽo lại càng thêm thương nhớ quê hương. “Nhớ nước đau lòng, con quốc quốcThương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Ở hai câu luận, sự sống xuất hiện nổi bật hơn với tiếng chim rừng kêu vang, thế nhưng cũng tương tự với mạch cảm xúc ở những câu thơ đầu, sự sống xuất hiện không hề mang đến sự vui vẻ, sinh động, ấm áp mà trái lại mang đến những cảm xúc buồn bã, day dứt. Chim quốc và chim đa đa nổi tiếng là những loài chim có tiếng kêu thảm thiết, não nề vô cùng, nghe tiếng chim mà lòng người chùng xuống hẳn, cảm xúc buồn thương lập tức tràn về trong tâm can. Đặc biệt giữa một không gian rộng lớn hoang vu như thế, tiếng chim nghẹn ngào, day dứt vang lên càng làm tăng sự hoang vắng tĩnh lặng của thiên nhiên rộng lớn, cô lập con người trong mối sầu tư. Mà với Bà Huyện Thanh Quan đó là nỗi nhớ thương quê nhà da diết, là buồn khổ xa xứ, lòng đau xót, bất lực trước thời cuộc rối ren, từ đó cũng nhận thấy được lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng và thầm kín của tác giả được thể hiện thật tinh tế qua cảnh sắc thiên nhiên. “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu kết đã khép lại bài thơ với những cảm xúc buồn thương sâu lắng, đồng thời cũng mở một chân trời cảm xúc mới bằng một giọng thơ chậm rãi, như tâm sự. Cái “dừng chân” của lữ khách không chỉ đơn thuần là sự nghỉ ngơi sau những ngày đường mệt mỏi, mà còn là sự lắng đọng cảm xúc trong tâm hồn của thi sĩ. Trước khung cảnh rộng lớn, bao la “trời non nước”, tác giả dần mở lòng bộc lộ cái tôi cá nhân của mình, trước hết đó là cảm xúc cô đơn lẻ loi, lạc lõng trước thiên nhiên. Sau là ý thức về cái tôi cá nhân, về việc giữ riêng cho mình tâm hồn hồn thanh cao, lòng yêu nước sâu sắc, từ chối những sự nhiễu nhương của thời cuộc, bà đã dần buông bỏ những vướng bận cuộc đời, quyết để tâm hồn thanh tịnh với chỉ “một mảnh tình riêng ta với ta”. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú xuất sắc, với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và tài hoa, thông qua cảnh sắc thiên nhiên Bà Huyện Thanh Quan đã gửi gắm vào đó những nỗi niềm cảm xúc cá nhân, đó là nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước và sự đau xót, bất lực trước thời cuộc biến đổi. Để lại trong lòng độc giả những cảm xúc khó quên, thấm thía nỗi buồn man mác, sự cô đơn, lẻ loi của của tác giả giữa cuộc đời, giữa thiên nhiên rộng lớn. Đọc nhiều hơn ☀️ Kết Bài Bánh Trôi Nước Của Hồ Xuân Hương ☀️ 20 Đoạn Hay Phân Tích Luật Thơ Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 12 Tham khảo bài văn phân tích luật thơ bài Qua đèo Ngang dưới đây sẽ giúp các em học sinh có được những định hướng làm bài cụ thể. “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang – một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi. Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề Bước đến đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa. Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ. Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật. Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia. Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ Dừng chân đứng lại Trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta. Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc. “Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy. Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích Bài Sông Núi Nước Nam 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích Từ Ta Với Ta Trong Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 13 Đón đọc bài văn mẫu phân tích từ ta với ta trong bài Qua đèo Ngang dưới đây với những gợi ý định hướng làm bài cụ thể. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. Thật đúng như vậy, mỗi nhà thơ đều chọn cho mình một lối đi riêng biệt để thể hiện phong cách nghệ thuật sáng tác của riêng mình. Ta bắt gặp Hồ Xuân Hương với cái “tôi” sôi nổi cá tính muốn đấu tranh cho thân phận bèo trôi của người phụ nữ qua “Bánh trôi nước”. Đến với thơ Bà Huyện Thanh Quan ta lại thấy một cái “tôi” nhẹ nhàng với những nỗi nhớ nước thương nhà da diết qua bài thơ “Qua đèo Ngang”. Bà Huyện Thanh Quan được biết đến với danh tiếng là một nữ sĩ tài ba hiếm có trong thời đại xưa. Thơ của bà luôn chất chứa những nỗi nhớ đầy vơi, những miền kí ức lạ. Bài thơ “Qua đèo Ngang” là một trong số những bài thơ Đường luật xuất sắc nhất của bà và luôn được các thế hệ bạn đọc đón nhận. Với tình yêu quê hương đất nước luôn cháy bỏng, “Qua đèo Ngang” chính là một tuyệt phẩm về tả cảnh ngụ tình của tác giả để giãi bày nỗi nhớ nước thương nhà đến đau lòng. Trong đó ý thơ “ta với ta” cất lên chất chứa đầy tâm trạng. Trong bài thơ, nỗi niềm chất chứa trong tâm hồn nhà thơ khiến nhà thơ xúc động đến bồn chồn trước cảnh non nước hữu tình nên phải “dừng chân đứng lại” để tận hưởng, để ngắm nhìn tinh hoa đất trời. Thế nhưng nhà thơ vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng khi chỉ còn “Một mảnh tình riêng, ta với ta”. Thủ pháp đối lập, nhà thơ đã lấy cái bao la, mênh mông của đất trời để làm nổi bật lên một thân phận bé nhỏ, “một mảnh tình riêng”. Khi không gian tĩnh lặng, ở đây chỉ có một mình bà “ta với ta” hòa quyện cùng mảnh tình riêng cho đất nước đã làm ta gợi nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến “Bác đến chơi đây ta với ta”. Thế nhưng sự kết hợp giữa “ta với ta” trong thơ của Nguyễn Khuyến có nghĩa rằng tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cái “ta” đó không phải cái ta cô đơn, cái “ta” đó chính là cái “ta” được hòa quyện giữa hai tâm hồn vào chung một thể xác. Còn với Bà Huyện Thanh Quan, cái “ta” chính là cái “ta” đơn độc, lẻ bóng với nỗi sầu nhớ nước, thương nhà khôn xiết. Qua đó, ta càng thấm thía hơn nỗi niềm giấu kín không thể giãi bày của nhà thơ. Bài thơ “Qua đèo Ngang” đã thể hiện thành công một phong cách nghệ thuật rất sáng tạo và đặc biệt của Bà Huyện Thanh Quan. Những tình cảm đặc biệt nhà thơ đều dành trọn cho quê hương đất nước, cho gia đình của mình bởi vậy bài thơ đã được giới trẻ đón nhận một cách nồng nhiệt. Bài thơ chính là một tuyệt phẩm về nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”, mượn không gian yên tĩnh của núi rừng để bày tỏ tình cảm nhớ nước, thương nhà luôn thường trực của thi nhân. Tác giả đã để lại cho chúng ta những bài học đắt giá về tình yêu quê hương, đất nước bởi mỗi chúng ta sinh ra đều có một quê hương để trở về và tôi cũng vậy, quê hương của tôi chính là Việt Nam thân yêu! Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Phò Giá Về Kinh Của Trần Quang Khải 🌼 13 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Phân Tích 4 Câu Thơ Đầu Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 14 Bài văn mẫu phân tích 4 câu thơ đầu bài Qua đèo Ngang dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích giá trị của đoạn thơ. Việt Nam có rất nhiều con đèo nổi tiếng như Đèo Hài Vân, Đèo Cả, Đèo Phương Hoàng… nhưng nổi bật nhất vẫn là Đèo Ngang vì nó được đi vào thơ ca, được các thế hệ nhắc đến nhờ bài thơ “Qua Đèo Ngang”, một trong sáu bài thơ Đường luật còn lưu lại cho đến ngày nay của nữ thi sĩ tài danh Nguyễn Thị Hĩnh, còn được người đời biết đến qua tên gọi Bà Huyện Thanh Quan. Với những vần thơ trữ tình, in sâu vào lòng người đọc, người nghe nỗi xúc dộng lẫn thán phục, bài thơ đã miêu tả cảnh vật con đèo cũng như tâm trạng của mình khi đi từ Thăng Long vào kinh đô Huế nhậm chức. Trong đó, 4 câu thơ đầu với bút pháp tả cảnh ngụ tình đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Cảnh tượng Đèo Ngang hiện lên qua thời gian và không gian trong hai câu “Đề” như sau “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ” Nhà thơ dừng chân tại Đèo Ngang vào lúc xế tà. Việc sử dụng hình ảnh bóng chiều vào câu thơ có tác dụng giúp người đọc, người nghe cảm thấy bồi hồi xao xuyến vì đây là lúc mặt trời khuất núi, vương lại những tia nắng vàng rượm rồi tắt hẳn. Buổi xế tà là quãng thời gian các nhà văn, nhà thơ thường dùng để diễn tả nỗi buồn, nỗi trống vắng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết “Buồn trông cửa bể chiều hôm.” Hoặc Trần Nhân Tông đã ghi lại trong bài Thiên Trường vãn vọng “Bóng chiều man mác có dường không.” Việc sử dụng buổi chiều đã phản ánh được tâm sự chất chứa trong lòng tác giả về một nỗi buồn hữu hữu vô vô. Nỗi buồn càng tăng lên khi cảnh vật ở đây có đá, lá hoa chen chúc nhau mọc lên tạo thành một cảnh tượng hoang dã, không có bàn tay chăm sóc của con người. Hình ảnh này cũng đã in sâu vào tâm trí em cảm xúc yêu thương quê hương và từ đó thấu hiểu hơn nỗi nhớ nhà thiết tha của tác giả khi phải rời quên đến một nơi xa lạ. Trong bóng chiều, cảnh vật tại con đèo dần dần mở ra “Lom khom dưới núi, tiều vài chú,Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.” Dưới ngòi bút của nhà thơ, cảnh vật con đèo hiện lên thật cụ thể, sinh động! Cụ thể ở chi tiết vài chú tiều phu lom khom đốn củi dưới núi, còn bên kia sông lác đác, thưa thớt một vài căn nhà đơn sơ. Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc sử dụng biện pháp đảo ngữ. Từ “lom khon” được dưa lên trước nhằm diễn tả cảnh Đèo Ngang tuy có sự sống của con người nhưng người thì lại vừa không thấy mặt vừa không gặp được để trò chuyện. Còn nhà dân thì ở bên kia sông, đồng thời lại thưa thớt vài căn nên có cũng như không. Chính điều này càng làm tăng thêm nỗi buồn cho nhà thơ. 4 câu đầu trong bài thơ Qua Đèo Ngang đã thành công khi chuyển tải được tâm sự u buồn của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời lồng ghép vào đó là cảnh tượng thiên nhiên rất thực, rất sinh động của một con đèo nổi tiếng trong thơ ca và trong lịch sử nước ta. Bài thơ không chỉ thành công về mặt ý nghĩa mà còn rất chỉnh chu trong việc dùng từ, tạo câu thật đặc sắc gây thích thú cho người đọc, người nghe. Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Cổng Trường Mở Ra 🍃 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích 4 Câu Thơ Cuối Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 15 Khi viết phân tích 4 câu thơ cuối bài Qua đèo Ngang, các em học sinh cần nắm được nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Tham khảo bài văn mẫu phân tích bốn câu thơ cuối bài thơ Qua đèo Ngang dưới đây Bài thơ Qua đèo Ngang được viết trên đường bà Huyện Thanh Quan vào kinh đô Huế nhận chức, đó là lần đầu tiên bà xa quê. Dừng chân bên đèo Ngang đã khơi dậy trong lòng bà bao cảm xúc. Đứng trước không gian hoang vu, đìu hiu của núi rừng nơi đèo Ngang, thi nhân bộc lộc tâm sự của mình qua tứ thơ Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaDừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta Âm thanh của con cuốc hay chính là tiếng lòng của tác giả. Câu thơ đã sử dụng điển tích xưa của Trung Quốc về vua Thục. Vì mất nước mà hóa thành con cuốc, chỉ biết kêu lên những tiếng đau thương. Âm thanh da diết ấy vang lên trong chiều muộn càng làm cho tâm trạng nhà thơ thêm sầu lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Hai câu thơ đã bộc lộ rõ những xúc cảm của thi sĩ. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa ” đau lòng” “mỏi miệng” cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu nước thương nhà. Hai câu thơ cuối khép lại những tâm sự, nỗi niềm của nhà thơ Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta. Giữa bao la đất trời, sự hùng vĩ của non cao và mênh mông của sông nước đã níu giữ bước chân người lữ thứ. Và giữa không gian ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơ và trống trải dần lấp đầy tâm hồn. Một mảnh tình riêng, một nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn chẳng thể sẻ chia cùng ai. Chỉ có “Một mảnh tình riêng ta với ta” – ta đối diện với chính mình giữa đất trời rộng lớn, mỗi chữ viết ra đều mang một nỗi niềm đơn chiếc, đều cực tả nỗi buồn thầm lặng giữa nơi đất khách quê người. Bằng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, thi nhân đã bộc lộ được những tâm tư, nỗi niềm thầm kín. Đó là tâm trạng hoài cổ nhớ thương nước, thương nhà da diết, một nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả. Tiếp tục tham khảo 🔥 Phân Tích Nước Đại Việt Ta 🔥 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất Phân Tích 2 Câu Cuối Bài Qua Đèo Ngang – Mẫu 16 Để giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết phân tích 2 câu cuối bài Qua đèo Ngang, tham khảo và vận dụng cho mình những gợi ý hay trong bài văn mẫu phân tích hai câu thơ cuối bài Qua đèo Ngang sau đây Qua Đèo Ngang là bài thơ xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam với phong cách trang nhã, tinh tế, mang nỗi trầm buồn sâu sắc, chứa đựng những cảm xúc giấu kín trong trái tim của một con người yêu nước, của một nữ sĩ tài hoa trước khốn cảnh nước nhà chia cắt. Hai câu kết của bài thơ dường như khép lại cả bài thơ với giọng thơ lắng đọng, nhịp điệu chậm rãi, tựa như ánh hoàng hôn vụt tắt “Dừng chân đứng lại trời non nước/Một mảnh tình riêng ta với ta”. Thế nhưng trong cảm nhận của Tế Hanh, bài thơ không hoàn toàn toàn khép lại bởi hai câu thơ ấy, nó tựa như là một cái kết mở khơi gợi nhiều cảm xúc khác, ông nhận xét rằng “Trong bài Qua đèo Ngang, hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng. Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới”. Cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ đó là nỗi cô đơn, lẻ loi trước thiên nhiên hoang sơ rộng lớn, là tấm lòng yêu nước tha thiết, nỗi đau rời quê hương lưu lạc xứ người của nữ sĩ tài hoa Bà Huyện Thanh Quan. Nếu như ở bốn câu thơ đầu là tả thực về quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nhưng chất chứa nỗi hiu quạnh ám ảnh lòng người, hai câu luận bộc lộ nỗi nhớ nhà đến xót xa, day dứt, thì ở hai câu kết người ta lại khám phá ra một chân trời cảm xúc mới. “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Giọng thơ như kể, chậm rãi, có vẻ khoan thai, nhẹ nhàng nhưng chứa đựng trong ấy là cả một khung trời những xúc cảm tâm sự bồi hồi. Cái “dừng chân” ấy của tác giả, trước là dừng vì mỏi mệt cả về tâm hồn lẫn thể xác sau quãng đường di chuyển đằng đẵng, và trước những biến cố khôn lường của đất nước. Sau là sự lắng đọng của tâm hồn, không gian như ngừng lại, những nhận thức cá nhân, là cái tôi của tác giả dần được bộc lộ trước những quá khứ u buồn, và trước thực tại mịt mờ. Có thể có người cho rằng, khung cảnh “trời non nước” hiện ra trước mắt tác giả là khung cảnh rất đỗi rộng lớn, khoáng đạt, sao có thể bế tắc mịt mờ, thế nhưng đó mới là cái hay trong nghệ thuật làm thơ của tác giả, mà những nhà thơ sau này tiêu biểu là Huy Cận thường đưa vào thơ của mình. Bế tắc ấy nằm ở nỗi cô đơn, trống vắng, là sự cô độc giữa dòng đời nổi trôi của một con người tha hương viễn xứ, bất lực trước thời cuộc. Bầu trời càng rộng, nước càng sâu, núi càng cao thì càng nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Xung quanh tác giả dẫu có biết bao nhiêu cảnh vật, thậm chí lác đác có sự sống của con người, thế nhưng mỗi con người có một cuộc đời riêng, lúc này đây cái tôi cá nhân của tác giả được bộc lộ một cách rõ nét hơn cả. Bà ý thức được rằng những nỗi buồn, những tâm sự đang ẩn chứa trong trái tim bà không có một ai có thể thấu hiểu, chỉ có “một mảnh tình riêng ta với ta” mà thôi. Cuộc đời bà, tâm hồn bà không thể dung hòa với thời cuộc nhiễu nhương, với chế độ phong kiến suy tàn và những tư tưởng cổ hủ lạc hậu, bà gói lại mảnh tình ấy cho riêng mình, chỉ “ta với ta”, chỉ một tâm hồn thanh cao, trong sạch và yêu nước thương dân sâu sắc. Dẫu cả bài thơ người ta chỉ thấy một giọng thơ êm đềm, đượm nỗi buồn mênh mang và vô cùng tinh tế đúng chất của một ngòi bút thục nữ, nhưng ẩn chứa đằng sau ấy lại là một bóng hình của con người có thế giới nội tâm sâu sắc, bộc lộ cái tôi cá nhân qua tác phẩm của mình trước một xã hội đang suy tàn nhưng những định kiến chèn ép cái tôi cá nhân còn vô cùng sâu sắc. Đó chính là những chân trời cảm xúc mới trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Nếu như văn học cổ điển Việt Nam thường hướng tới cái chung, nói về tình yêu quê hương đất nước, về những vấn đề mang tính thời cuộc, thì ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan ta lại có những khám phá mới về phong cách thơ ca của bà. Không chỉ dừng lại ở nỗi đau xót trước nghịch cảnh đất nước, mà tác tác giả còn có những ý thức khá rõ rệt về cái tôi cá nhân, bộc lộ những cảm xúc cá nhân, những tâm sự của riêng mình trong thơ, làm cho cả bài thơ dường như mang thêm màu sắc mới, cảm hứng mới, không đơn thuần nhàm chán như phong cách thơ cổ điển trước đây. Khám phá thêm 🌜 Phân Tích Bài Bàn Luận Về Phép Học 🌜 10 Mẫu Hay Nhất
Văn mẫu lớp 7Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của nữ sĩ. Mời các bạn tham khảo bài văn mẫu để hoàn thiện bài viết của mình tốt tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 1Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ "Qua đèo Ngang" tiêu biểu cho phong cách thơ "Qua đèo Ngang" được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo NgangBước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, lá chen hoaKhông gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhàĐến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậyNhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaĐiệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và gia gia kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bông nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả "nhớ nước" và "thương nhà". Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểmDừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với taChỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời thơ "Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 2Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước."Qua đèo ngang" gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ "Qua đèo ngang" được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh."Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa"Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc "bóng xế tà". Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có "cây cỏ chen lá, đá chen hoa" hiu quạnh. Điệp từ "chen" khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở."Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà"Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. "người tiều phu" đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, "lom khom" từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn. Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia"Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng."Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta"Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 3Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnhBước đến đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoaHai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con ngườiLom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhàNhững tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác bài thơ Qua đèo Ngang ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh QuanVideo Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.....................................Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn dàn ý và bài văn mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Hy vọng tài liệu sẽ giúp các em nắm được các ý chính cần triển khai trong bài, cũng như biết cách vận dụng lý lẽ để xây dựng cho mình những bài văn hoàn chỉnh, từ đó học tốt Ngữ văn 7 tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu khác như Ngữ văn lớp 7, Soạn bài lớp 7, Học tốt Ngữ Văn 7, Giải Vở bài tập Ngữ Văn và các dạng đề thi học kì 1 lớp 7, đề thi học kì 2 lớp 7 cũng được cập nhật liên tục trên
I. DÀN Ý1. Mở bài– Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên ngăn cách giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây cũng là một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng.– Rất nhiều thi sĩ đã làm thơ tả cảnh đèo Ngang, trong đó nổi tiếng nhất là bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.– Tác giả sáng tác bài thơ này trong dịp từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập nữ quan dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ.– Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không bao giờ trở Thân bài* Hai câu đề+ Câu thứ nhất Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.– Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống.– Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ.+ Câu thứ hai cỏ cây chen đá, lá chen hoa.– Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối cỏ cây chen đá lá chen hoa.– Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước.* Hai câu thực+ Câu thứ ba Lom khom dưới núi tiều vài chú.– Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ.+ Câu thứ tư Lác đác ven sông chợ mấy nhà.– Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông.– Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật.* Hai câu luận+ Câu thứ 5 Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc.– Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng.– Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.– Nghệ thuật đối câu câu 5 >< con người nhỏ bé.+ Cậu thứ 8 Một mảnh tình riêng ta với ta.– Nét tương phận càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người.– Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi.– Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối Kết bài– Qua đèo Ngang được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ.– Thể thơ Đường luật sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngữ trong sáng và những hình ảnh dân dã, quen thuộc.– Bài thơ có sức sống vĩnh cửu trước thời gian và trong lòng nhiều thế hệ yêu thơ.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý 2. Dàn bài chi tiết a. Mở bài - Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang. b. Thân bài * Hai câu đề Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang - Thời gian “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. - Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng. Điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. => Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. * Hai câu thực Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang - Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện Nghệ thuật đảo ngữ Lom khom - tiều vài chú hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Lác đác - chợ mấy nhà hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. => Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh. * Hai câu luận Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang - Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. - Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. => Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan. * Hai câu kết Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ - Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. - Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” - đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. => Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn. c. Mở bài - Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang. 3. Bài văn mẫu Đề bài Em hãy viết bài văn ngắn phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Gợi ý làm bài Bài văn mẫu số 1 Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh “Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp. Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút. Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người. Bài văn mẫu số 2 Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy. Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, lá chen hoa” Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang. Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ ngư, tiều, canh, mục kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo. “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn. “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết. "Qua Đèo Ngang" là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. -Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-
phân tích bài qua đèo ngang lớp 7